Nhà viết kịch Xuân Trình – đối thoại trong Sống và Viết…

Sự nghiệp viết của Xuân Trình khởi đi từ nhà báo, nhà văn, nhưng cuối cùng, ông đã nhất định thành nhà viết kịch. Ông đã chọn được cách lập thân mà ông thiết tha khao khát nhất: viết kịch, để khẳng định một triết học riêng, về cái viết của mình: Tôi tư duy bằng đối thoại kịch, vậy thì tôi tồn tại. Đúng! Ông đã tư duy sáng tạo thật xuất sắc bằng đối thoại kịch, xuyên suốt đời sống và đời viết của mình – cho đến lúc nhắm mắt xuôi tay, trên đúng hai cương vị thật nhất quán với tính cách Xuân Trình: nhà viết kịch và nhà quản lý, điều hành Hội nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam 51 Trần Hưng Đạo, trong mấy chục năm cuối đời…


Cố tác giả Xuân Trình.

Một. Xuân Trình sống là đối thoại

Năm 1977, tôi buộc phải quyết định rời Khoa Viết văn Nguyễn Du, (bây giờ là Khoa Viết văn – Viết báo, thuộc ĐH Văn hóa HN), Trưởng khoa là GS. Hoàng Ngọc Hiến, người đã đưa tôi về Khoa làm giảng viên, với nhiều quý mến. Sau gần 2 năm, tôi biết đó không phải là nơi mình thuộc về, nên đã quyết tìm nơi làm việc mới, với khát khao thành nhà báo bình luận văn nghệ. Hồi đó, việc tự mình tìm nơi làm việc ở tòa soạn báo chí thời bao cấp, đã thật khó như …đường lên trời.

Có ông thầy tốt bụng dạy môn thể loại Kịch trong Khoa Văn trường ĐHTH HN, nơi tôi từng là sinh viên, gặp tôi lang thang đọc báo trong Thư viện QG 31 Tràng Thi, hòng tìm chốn nương thân, liền sốt sắng mách tôi đến gặp nhà viết kịch Xuân Trình, thư kí tòa soạn Tạp chí Sân Khấu, cơ quan ngôn luận của Hội Nghệ sĩ Sân khấu VN, mới được xuất bản hàng tháng, đã ra số 5, chuẩn bị số tháng 6.1977. Ông thầy bảo tôi: Xuân Trình đương cần “kí giả kịch trường”, viết bình luận cho Tạp chí Sân khấu. Em thì đang cần một chỗ dung thân tử tế. Sân khấu là nơi rất đáng để viết bình luận. Vả lại, Xuân Trình là người tử tế, rất biết ai là ai, rất biết dùng người. Em ra trường (tôi tốt nghiệp khoa Văn trường ĐH TH HN, cuối 1972, làm biên tập viên NXB Văn học từ 1973 -1975, giảng viên khoa Viết văn ĐH VH, từ 1975 – 1977) đã được mấy năm, lại đã viết bình luận văn chương khá tốt, chỉ thiếu may mắn là chưa có chỗ hành nghề đích đáng. Thầy nghĩ em hợp với tờ tạp chí sân khấu rất mới lạ này của Xuân Trình. Ông ấy là Thư kí tòa soạn, thi sĩ Lưu Trọng Lư mới là Tổng biên tập. Nhưng Lưu Trọng Lư đã giao Xuân Trình điều hành Tạp chí Sân khấu. Và quyết cả việc lấy người về làm “kí giả kịch trường”. Em đến gặp ông Xuân Trình ngay đi!    

Tôi được lời thầy như cởi tấm lòng. Ngay sau đó, thầy tôi xin Xuân Trình cho tôi một cuộc hẹn…

Và cuộc hẹn, thực ra là một cuộc đối thoại với Xuân Trình, đã rẽ ngoặt cuộc đời tôi.

Ngay lần đầu gặp, Xuân Trình đã nói thẳng: Cô phải chịu một cuộc đối thoại. Thẳng thừng và sòng phẳng. Với tôi.  Đối thoại là tốt nhất, khi lần đầu gặp nhau. Đối thoại sẽ quyết định việc nhận hay không nhận cô về làm phóng viên – biên tập viên Tạp chí Sân khấu. Tôi cần người biết làm việc. Và ông hỏi độp: Cô đã đọc Tạp chí SK chưa? Cho nhận xét về cấu trúc tạp chí? Kiểu bài nào cô thích? Tại sao? Cô nhận xét gì về cách tổ chức, lựa chọn, sắp xếp, điều hành bài vở qua cái đọc tạp chí của cô? Bìa tạp chí nào là đẹp nhất về mĩ thuật, theo cô? Cô có nghĩ là mình sinh ra để viết bình luận văn nghệ? Cô có bài viết nào đã được đăng để chứng minh?

Xuân Trình liên tiếp hỏi, tôi hào hứng và liên tiếp trả lời. Rất thích thú vì ông không đối thoại với tôi theo cách thông thường. Dù trong khi đối thoại, ông lại giải thích về món nầm thịt chó, theo ông là ngon nhất đời, và ông đang dùng kéo cắt thành từng miếng nhỏ cho con gái ăn. Vừa hỏi, vừa lắng nghe tôi, vừa bươn theo bón từng thìa cơm cho cô con gái tên Yên, vừa ăn vừa bò nghịch trên sàn nhà đá hoa. Kết thúc cuộc hội đàm, ông tỏ ý vừa lòng và thú vị khi tôi khẳng định: ấn tượng mạnh nhất của tôi thuộc về bài “Nhớ bác Tám Danh” của tác giả kí tên V. Đấy là bài viết thật thông minh, với một thứ tiếng Việt tinh tế. Người ấy như sinh ra để viết. Tôi cũng thấy mình có lẽ sinh ra để viết, và đủ năng lượng để viết kiểu bài độc lạ như thế, theo cách của tôi…

Nghe tôi nói thẳng và thật, ông không lấy thế làm điều, và hài lòng hơn, khi tôi đưa ông xem bài viết dài hàng chục trang đánh máy, có chữ kí duyệt của nhà thơ Chế Lan Viên, (được ủy thác cùng nhà văn Bùi Hiển, nhà thơ Xuân Diệu, chuyên kí duyệt bài đăng Tạp chí Tác Phẩm Mới của Hội Nhà Văn Việt Nam, thập kỉ 70 thế kỉ 20). Bài “ Đối thoại mới với Chế Lan Viên”, tôi viết năm 23 tuổi, được đăng Tạp chí Tác Phẩm Mới năm 1974, với tên bài mà ông Trình cười, “cho là ngược ngạo, nhưng độc đáo”, và bảo, “rất thích”. Bài dài dăm ngàn chữ, đánh máy trên giấy pơluya, dạng bản thảo, tôi được tặng để giữ làm kỉ niệm. Ông Trình xé nửa trang đầu vài chục dòng, đọc chăm chú và nhanh, rồi thủng thẳng buông: Cô biết đối thoại, biết viết bình luận. Tôi đồng ý nhận cô về Tạp chí Sân khấu. Ngay sáng mai, mời cô đến tòa soạn nhận quyết định thu nhận từ tôi. Nếu ĐH Văn hóa đồng ý cho cô chuyển về Tạp chí Sân khấu, thì mang văn bản về cho tôi. Thế là được. Sau đó, đến họp tòa soạn 51 Trần Hưng Đạo, nhận ngay bài viết cho số tháng 6.1977…              

Thế là từ giờ phút đó, Xuân Trình mở cửa đón tôi về Tạp chí Sân khấu, đóng chốt ở tổ Lý luận phê bình, do đạo diễn Đình Quang, bạn rất thân của Xuân Trình, phụ trách kiêm nhiệm. Với cách ấy, ông đã từng chiêu dụ được một loạt cây bút về Tạp chí Sân khấu, làm việc rất chuyên nghiệp và hiệu quả cao: từ Lưu Quang Vũ, Thế Ngữ, Nguyễn Ánh, Đặng Trần Cần, Từ Lương, đến tôi, Đức Kôn, Ngô Thảo, Bùi Hạnh Cẩn, Lê Thu Hạnh, anh em Tất Đạt, Tất Thắng, Phạm Tố Lan, Bạch Tuyết, Ngọc Mai…cùng một dàn cộng tác viên viết bài có danh giá trên trường văn trận bút thời bấy giờ…Và ngay số tháng 6.1977 không thể nào quên ấy, tôi được khai bút bài đầu tiên, do chính Xuân Trình đặt và đăng ở Tạp chí Sân khấu, bài “Thế Lữ của sân khấu”. Năm ấy, 1977, cụ Thế Lữ, Chủ tịch Hội nghệ sĩ Sân khấu VN tròn 70 xuân và Hội nghệ sĩ Sân khấu VN tròn 20 tuổi. Cụ Thế Lữ rất lịch thiệp, chống batoong đến tận tòa soạn để cảm ơn Xuân Trình và tác giả bài viết. Tôi cảm động bởi đã thực hiện bài viết ấy bằng nỗ lực cao nhất, theo chỉ dẫn sâu sắc và thân tình của ông: Đến nhà cụ Thế Lữ đối thoại, lấy tư liệu và viết trong một tuần. Tôi không ngờ phương pháp đối thoại nhằm dựng “chân dung nghệ sĩ” lại có thể đem lại thành công bất ngờ đến thế.

 Sau này, tôi mới biết tác giả bài “Nhớ bác Tám Danh” kí tắt là V. chính là Lưu Quang Vũ, (do bị kỉ luật quân đội không được đăng bài ký tên thật, Xuân Trình tìm mọi cách đăng bài, và đưa Vũ vào biên chế Tạp chí SK, nên buộc phải để Vũ kí tên tắt khi lần đầu xuất hiện). Khi ấy, Lưu Quang Vũ cũng đã được chỉ dẫn viết bài bằng phương pháp đối thoại. Và trước khi viết, ai cũng phải đối thoại trước với chính Xuân Trình, để dựng bài cho Tạp chí Sân khấu được nhất quán về khuynh hướng tư tưởng và phong cách diễn đạt ngôn từ. Ông thích đối thoại với Vũ và tôi và tất cả những nhà báo trong tạp chí Sân khấu ngay tại tòa soạn: Các bạn định viết gì về nhà đạo diễn, nhà viết kịch, nhà mỹ thuật, nhà nghệ sĩ sắm vai kịch…? Điếu gì sẽ là thông điệp cốt lõi xuyên suốt bài viết? Vấn đề đặt ra từ hiện trạng sân khấu hôm nay là gì? Tôi định đặt bài với người A, B, C, D, các bạn có thể đối thoại được với họ không? Phải phân minh thật rõ giữa đối thoại và hỏi đáp! Và nếu phỏng vấn thì phải biết: bản chất phỏng vấn là đối thoại, bởi đối thoại hoàn toàn khác hỏi đáp!

Khi Xuân Trình chỉ định tôi đến viết về đạo diễn Nguyễn Đình Nghi, ông chỉ bỏ nhỏ như nói thầm: Ông Nghi là người thực tài đạo diễn, đã viết luận án tiến sĩ xuất sắc ở Liên xô về nghề đạo diễn. Ông ấy giỏi cả lý thuyết nghề đạo diễn lẫn thực hành nghề. Viết về ông ấy, tốt nhất là dùng đối thoại. Gợi ý của TBT Xuân Trình thật đáng giá. Và bài viết của tôi hiện diện trên tạp chí SK năm 1978: Đối thoại với Nguyễn Đình Nghi về nghề đạọ diễn. Cả Xuân Trình lẫn Nguyễn Đình Nghi đều hài lòng và cho đấy là bài viết đích đáng về đối thoại. Không chỉ tôi, nhiều cây viết trong tạp chí Sân khấu đã coi tạp chí sân khấu là môi trường hành nghề viết rất hữu dụng, bởi cái căn phòng tòa soạn bé xíu ấy đã diễn ra bao cuộc tranh luận, đối thoại, đọc kịch bản, chuyện trò trao đổi…vô cùng bổ ích và lý thú cho việc học và hành nghề viết báo và viết kịch. Tôi vẫn coi tôi đã tốt nghiệp thêm một bằng cử nhân đại học sân khấu nữa ở đấy, với cách dạy nghề như truyền lửa bằng đối thoại, đối thoại và đối thoại của người thầy – vị hiệu trưởng Xuân Trình…

Hàng chục năm làm việc dưới quyền lãnh đạo của TBT Xuân Trình, thi sĩ Lưu Quang Vũ và cả tôi, cùng các cây bút khác, đã thành những kí giả kịch trường chuyên nghiệp và hữu dụng của Tạp chí Sân khấu và không chỉ của tờ tạp chí này. Và việc Lưu Quang Vũ trở thành nhà viết kịch sáng giá nhất thời kỳ đổi mới, đã không thể tách khỏi cái nôi đào tạo là Tạp chí Sân khấu, với những tiền đề do chính Xuân Trình chuẩn bị. Bằng nghiệm sinh cá nhân, từ cả lý tính lẫn cảm tính, trong quá trình dài hàng thập niên làm việc ở Tạp chí Sân khấu, đặc biệt là với hai người anh: Xuân Trình và Lưu Quang Vũ, đã khuất núi cả hai, tôi khẳng định: không có tiền đề khai sáng từ nhà viết kịch Xuân Trình thì không thể bỗng dưng nảy sinh nhà viết kịch Lưu Quang Vũ. Và đây là kết tinh chói sáng nhất của phương pháp đào tạo và tổ chức nguồn lực làm việc cho cả hai cơ quan thiết yếu nhất của ngành sân khấu. Đó là Hội Nghệ sĩ Sân khấu VN và Tạp chí Sân khấu, cơ quan ngôn luận của chính Hội này.

Có lần một vị lãnh đạo đến thăm tạp chí SK,  đã hỏi Xuân Trình về “bí quyết” trong điều hành giới nghệ sĩ sân khấu, được coi là đáo để, sắc sảo, Xuân Trình cười hóm hỉnh: Thưa anh, tôi điều hành bộ máy chạy trơn, chỉ bằng cách…nói thầm!

Hai. Số phận phải viết kịch của Xuân Trình

Xuân Trình đã không ngẫu nhiên, khi sử dụng đối thoại là phương cách tối ưu, trong ứng xử đời sống, với những người cùng nghề và với cái viết kịch của chính mình. Ông thấu hiểu đến tường minh, khi định dạng sân khấu là nghề biểu diễn kịch của diễn viên, phải được mặc định trong sự chuyển ngữ từ một loại tác phẩm văn học đặc thù là văn bản kịch, đến một loại tác phẩm sân khấu đặc thù, là vở diễn. Và cơ sở của vở diễn hữu thể, lại chính là cái phi vật thể của chữ viết trong kịch bản văn học, và hơn nữa, cơ sở của cái gọi là kịch bản văn học, chính là đối thoại.

Càng không ngẫu nhiên, phương cách đối thoại đã được kinh qua trong ứng xử đời sống của Xuân Trình, đã đưa ông thẳng tiến đến viết kịch. Và viết kịch đã là tổ chức đỉnh cao nhất về đối thoại, qua xung đột, để cấu trúc nên một loại tác phẩm, có thể vẫn dành cho cái đọc của độc giả, nhưng chủ đích của người viết vẫn dành cho cái diễn trên sân khấu. Bởi chưng, tất cả các giọng điệu phong phú của Xuân Trình trong đối thoại đời sống đã hướng Xuân Trình đến mục đích duy nhất, như một Lamã, địa danh thần thánh mà ông quyết bắt mình phải đến tận nơi. Đó là việc thiết lập trong hàng chục văn bản kịch của ông một cuộc đối thoại thật sắc bén, minh bạch, vừa rạch ròi về lý trí, vừa đẫm đầy về tình cảm, hướng đến đối thoại với người xem đương thời, trên nền tảng triết học riêng, do chính Xuân Trình xây cất và không ngừng vận hành nó trong cả cuộc đời viết kịch của mình.

Vì thế cái viết kịch bằng đối thoại riêng của Xuân Trình đã mặc nhiên đem đến cho các văn bản kịch của ông luôn luôn bị “mắc kẹt” trong tình thế đối lập đến cực đoan: thành công và thất bại, ngọt ngào và cay đắng, vinh quang và bất hạnh, ủng hộ và phản đối…Những cặp đối lập này trong kịch bản Xuân Trình vừa tồn tại song hành, vừa chuyển hóa lẫn nhau trong gang tấc. Có thể thấy rất rõ những đối lập chát chúa sinh tử này trong số phận trần ai, lên bổng xuống trầm… của những vở kịch được dàn dựng và biểu diễn từ kịch bản của Xuân Trình, như: Quê hương Việt Nam, Bạch đàn liễu, Mùa hè ở biển, Đợi đến mùa xuân, Nửa ngày về chiều…

Song, Xuân Trình là người viết kịch kiên định. Ông thủy chung như nhất với tín niệm riêng của mình: đã quyết dấn thân viết kịch thì cách gì cũng phải đối thoại được với thời cuộc mình đang sống, thông qua đối thoại, xung đột giữa các nhân vật kịch, phải được chưng cất từ đối thoại điển hình, từ các vấn đề nảy sinh từ trong sự phát triển mang tính bi kịch, hài kịch và cả chính kịch nữa, trong đời sống xã hội Việt Nam hiện đại. Ông khẳng định với các đồng nghiệp viết: nếu kịch không đối thoại được với người xem đương thời, về những vấn đề bức xúc đang nảy sinh trong xã hội hiện đại Việt Nam và giúp người xem cách giải quyết, thì ai còn tìm đến đến rạp hát xem kịch? Và người xem đến rạp hát với các cung bậc tình cảm hỉ nộ ái ố…Nên, kịch phải có cái để xem, nghe, thông qua đối thoại là bản chất của vở diễn, là mỹ học của cái trình diễn sân khấu.

Bởi vậy, ông thích kịch bản của ông được dàn dựng bởi những đạo diễn có tài năng “đọc vỡ chữ”, nói theo đạo diễn Nguyễn Đình Nghi là phải có “sức biện biệt văn học” mạnh mẽ, để thiết kế trên sân khấu những đối thoại kịch hàm chứa sâu sắc những vấn đề nóng rẫy luôn bùng phát từ đời sống của con người và thời cuộc. Cũng vì thế, Xuân Trình luôn bị ám ảnh bởi cuộc đối thoại từ bên trong tâm hồn ông với con người và thời cuộc, đến mức ông tự thú: Con người ấy, vấn đề ấy của thời cuộc cứ bám riết lấy tôi, buộc tôi phải viết kịch, không thể đặng đừng. Và chỉ có thể viết bằng đối thoại kịch, trong tổ chức một kịch bản sân khấu đặc thù, với màn, hồi, lớp cảnh, mới có thể giải phóng hết những bức bối dồn nén trong ông. Và từ đó ông có thể viết đối thoại sâu sắc đến mức diễn viên phải xử lý hình thể và giọng nói sân khấu thật tài năng, xuất thần trong vai kịch, mới mong đạt đến đối thoại “tiềm đài từ” (chạm được đến đáy chữ) trong “nghệ thuật thốt lời”, khi vào vai trên sân khấu. Ông rất mê thích những đạo diễn thuộc thế hệ vàng của nghề đạo diễn ở Việt Nam, được đào tạo ở các nước XHCN: Trung Quốc, Liên xô, Bulgaria, CHDC Đức, Rumania, Tiệp khắc, Anbania và nhất là tại Liên xô, đã đào tạo cho Việt Nam đến 3 thế hệ đạo diễn, làm thay đổi hẳn diện mạo của sân khấu Việt hiện đại, trong hơn nửa thế kỉ, kể từ sau cột mốc lịch sử năm 1954.

Từ điểm nhìn hôm nay, sau gần hai thập niên đầu của thế kỉ 21, nếu nhìn ngược về thời điểm đổi mới văn nghệ Việt Nam hiện đại từ năm1986, thì riêng về lĩnh vực nghệ thuật sân khấu, có thể khẳng định: nhà viết kịch Xuân Trình là người tiền phong, đặt tiền đề căn bản nhất cho cuộc đổi mới sân khấu Việt Nam hiện đại, ở chính cơ sở văn hóa căn cơ nhất của nó, là kịch bản văn học.

Những kịch bản văn học gai góc, thẳng thắn, quyết liệt, thậm chí “gây sự” của Xuân Trình luôn gặp trắc trở, chông gai trên con đường đối thoại với đương thời, bởi tính thức thời, bởi sự dự báo đầy tiên cảm cho thời tiết ngày mai của thế sự, trên tinh thần minh triết của một nhà viết kịch, đã tự tin xây cất triết học của riêng mình về cái viết, thấm thật sâu vào đối thoại kịch, như một cuộc đối thoại lớn với đương thời. Ở chính điểm tham chiếu này, nhìn lại số phận hàng chục kịch bản của Xuân Trình, ai là người – sân – khấu của hôm nay, lại không thấy khắc khoải buồn lo khi sân khấu đã đánh mất cuộc đối thoại với người xem, và bị khủng hoảng người xem ngay từ cuối thế kỉ 20 đầu thế kỷ 21…

Bởi thế, thật tiếc là Xuân Trình đã mất quá sớm, khi ở tuổi 55, năm 1991. (Ông sinh năm Bính Tý, 1936). Xuân Trình đã về cõi khác, nhưng tác phẩm kịch của ông đã ở lại trần gian, với những người Việt hiện đại đang cần đến đối thoại kịch kiểu Xuân Trình, để giải quyết “bi kịch của sự phát triển” xã hội Việt Nam hiện đại thế kỉ 21. (Học giả Đào Duy Anh đã phát hiện bi kịch này trong sách “ Việt Nam văn hóa sử cương”, xuất bản lần đầu tại NXB Quan Hải tùng thư, Huế, năm 1938)…

Đêm Sài Gòn 12 đến 15.11.2019

 

PGS.TS. Nguyễn Thị Minh Thái

 

Share this page